Đây là lời hịch kêu gọi toàn dân tộc đồng tâm, nhất trí, vượt qua mọi khó khăn, thách thức tiến lên giành chiến thắng. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” còn là một chân lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc; là lẽ sống, là mục tiêu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vĩ đại của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do, vì sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã được khắc sâu, in đậm vào con tim, khối óc của mọi người dân Việt Nam, trở thành niềm tin, lẽ sống, mục tiêu và động lực phấn đấu của toàn thể nhân dân Việt Nam. Tư tưởng đó còn là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với nhân loại tiến bộ, đặc biệt là đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
LỜI HIỆU TRIỆU TOÀN DÂN TỘC
Đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị thất bại, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, tăng cường quân Mỹ ở miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân hòng buộc chúng ta phải ngồi vào đàm phán theo điều kiện ép buộc của Mỹ. Mùa hè năm 1965, Mỹ và quân đồng minh gồm Nam Triều Tiên, Úc, New Zealand, Thái Lan... ồ ạt đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, đến tháng 6-1966 đã lên đến 300 ngàn quân, trong đó có nhiều sư đoàn, lữ đoàn tinh nhuệ của Mỹ, trở thành lực lượng chiến lược chủ yếu, trực tiếp tiến hành chiến tranh. Trên miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ từng bước được mở rộng về quy mô và cường độ với tuyên bố “Đưa miền Bắc quay trở lại thời kỳ đồ đá”. Trên trường quốc tế, Mỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung và mở “Chiến dịch hòa bình” hòng cô lập Việt Nam. Trong nước, chính quyền Mỹ thi hành các biện pháp bưng bít thông tin, không gọi lính trù bị, không tăng thuế, với hy vọng duy trì được sự ổn định nội bộ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Quốc hội và nhân dân Mỹ với chiến tranh Việt Nam.
Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, phát huy vai trò hậu phương lớn với tiền tuyến lớn miền Nam, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và làm tròn nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào, Campuchia. Để tinh thần đó thấu suốt đến toàn dân, toàn quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiệu triệu toàn dân tộc quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược với chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, bắt đầu lập luận từ quyền con người, đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc được “tạo hóa” sinh ra, một giá trị được thừa nhận và đề cao trong các bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của cách mạng Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với cả thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 17-7-1966 là sự nối tiếp và phát triển của tinh thần và ý chí trong Tuyên ngôn độc lập. Và với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân Việt Nam đã anh dũng, kiên cường đánh thắng hai đế quốc sừng sỏ nhất lúc bấy giờ, trở thành dân tộc tiêu biểu cho lương tri của nhân loại trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới ở thế kỷ XX.
TƯ TƯỞNG ĐI TRƯỚC THỜI ĐẠI
Trong kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19-5-1890 - 19-5-2010 (NXB Chính trị - Hành chính 2010), Đại tướng Phùng Quang Thanh, khi đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định: Trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là một luận điểm mang tầm chân lý, một chân lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là một giá trị to lớn trong học thuyết cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp vĩ đại đấu tranh vì độc lập, tự do, vì sự tồn tại và phát triển của dân tộc; đồng thời tư tưởng đó còn là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với nhân loại tiến bộ, đặc biệt đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh vì cuộc sống và hạnh phúc của mình.
Ý nghĩa và giá trị to lớn của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được cả nhân loại tôn vinh trong suốt 5 thập kỷ qua. Nó đã được khắc sâu, in đậm vào con tim, khối óc của toàn thể nhân dân Việt Nam.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng của riêng Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là tư tưởng, là lẽ sống của cả dân tộc Việt Nam. Bởi Người là đại biểu sáng ngời nhất của nhân dân Việt Nam. Mối quan hệ giữa đất nước và con người, giữa dân tộc, nhân dân và lãnh tụ đã hòa quyện chặt chẽ và thống nhất với nhau trong cùng khát vọng “độc lập, tự do”. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không đơn thuần là một tư tưởng mà đó là một chân lý được đúc kết, được rút ra từ chính lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn năm; từ mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của biết bao thế hệ người Việt Nam trong các cuộc đấu tranh vì cuộc sống, vì quyền độc lập, tự do. Có đặt trong mạch “lịch sử - thực tiễn” ấy, mới thấy hết ý nghĩa to lớn và giá trị tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.